Monday, December 26, 2011

Ta là Ánh Sáng thế gian
Các con là ánh sáng thế gian

HOMILY OF POPE BENEDICT XVI
EVENING VIGIL WITH YOUNG PEOPLE
EXHIBITION CENTER
FREIBURG
24 SEPTEMBER 2011

 

Các bạn trẻ thân mến,

Cả ngày hôm nay tôi mong chờ buổi tối này, và cơ hội gặp gỡ với các bạn và cùng hiệp ý với nhau trong lời cầu nguyện. Nhiều người trong các bạn đã hiện diện ở ngày hội giới trẻ thế giới, nơi chúng ta có thể trải nghiệm một bầu khí thanh bình đặc biệt, tình bằng hữu sâu sắc và niềm hân hoan vui sướng từ nội tâm tiêu biểu cho một buổi tối canh thức cầu nguyện. Mong ước của tôi là giờ đây chúng ta có thể trải nghiệm những điều như vậy: rằng Chúa đánh động trái tim của chúng ta và làm chúng ta trở nên nhân chứng tình yêu, những người cùng nhau cầu nguyện và giúp đỡ những người khác, không chỉ trong buổi tối nay mà trong suốt cuộc sống của chúng ta.

Trong tất cả nhà thờ, các thánh đường , bất kỳ nơi đâu các tín hữu cùng nhau tổ chức lễ Vọng Phục Sinh, buổi tối linh thiêng nhất này bắt đầu với ánh sáng của cây nến phục sinh, ánh sáng ấy của Người sau đó được truyền qua tất cả những người đang hiện diện nơi đây . Nghi thức tuyệt diệu này mà chúng ta đã thực thi trong tối hôm nay, tỏ lộ cho chúng ta trong các dấu chỉ, hùng biện hơn lời nói, mầu nhiêm của đức tin Kitô giáo.

Chúa Giê-su nói: “Ta là ánh sáng thế gian” (Jn 8:12), làm cho cuộc sống của chúng ta được chiếu sáng rực rỡ, vì vậy điều chúng ta đã từng được nghe trong kinh thánh trở thành sự thật: “Các con là ánh sáng thế gian” (Mt5:14). Không phải là khả năng của con người hay sự tiến bộ kỹ thuật của thời đại chúng ta mang lại ánh sáng cho thế gian này. Chúng ta phải trải nghiệm lần qua lần sự cố gắng của chúng ta để đem lại một thế giới tốt và công lý hơn gặp phải giới hạn của nó.

Cái đau khổ không nguyên cớ và thực tế cuối cùng của sự chết đợi mỗi người chúng ta là một bóng tối dày đặc cái mà có lẽ, qua những trải nghiệm mới, lóe lêntrong chốc lát, như thể một ánh sáng lóe lên trong đêm. Thế nhưng cuối cùng, vẫn là một màn đêm khủng khiếp.

Trong khi tất cả xung quanh chúng ta có thể toàn bóng tối và u ám, chúng ta nhìn thấy một ánh sáng: một ánh sáng nhỏ, rất nhỏ nhưng nó mạnh hơn cả bóng đêm dày đặc và bất khả chiến bại. Chúa Giê-su đã sống lại từ cõi chết, chiếu sáng trên thế gian này và Ngài là ánh sáng rực rỡ nhất ở những nơi mà, theo quan niệm loài người, tất cả chỉ là tăm tối và bất hạnh. Ngài đã chiến thắng sự chết– Ngài là sự sống – và lòng tin tưởng nơi Ngài, như một ánh sáng nhỏ, phá tan tất cả tối tăm và sự đe dọa. Chắc chắn rằng những người mà tin tưởng vào Đức Giê-su không luôn có một cuộc sống vui tươi vĩnh cửu như thể họ không cần chịu nhiều nỗi đau và khó khăn, nhưng trong họ luôn có ánh sáng le lói ở đó, thắp sáng con đường đưa đến cuộc sống mãn nguyện (cf. Jn 10:10). Những người tin tưởng vào Chúa thì mắt họ sẽ nhìn thấy ánh sáng ngay giữa đêm tối và họ luôn nhìn thấy bình minh của một ngày mới.

Ánh sáng không ở đơn độc. Xung quanh, những ánh sáng khác chiếu sáng lên. Trong tia sáng của chúng nó không gian có hình bóng của nó, vì thế chúng ta có thể tìm thấy phương huớng của chúng ta. Chúng ta không sống đơn độc trên thế gian này. Và để làm những điều quan trọng trong cuộc sống mà chúng ta phải cậy dựa vào những người khác. Đặc biệt trong đức tin của mình , chúng ta không đứng một mình, chúng ta liên kết trong một chuỗi dài của những người tín hữu. Không ai có thể tin nếu người ấy không được giúp đỡ bởi đức tin của những người khác, và ngược lại, qua sự tin tưởng của tôi, tôi làm mạnh thêm niềm tin của những người khác.

Chúng ta giúp đỡ lẫn nhau để đặt một mẫu gương, chúng ta chia sẻ với người khác những gì là của mình: suy nghĩ của chúng ta, hành động của chúng ta, tình cảm của chúng ta. Và chúng ta giúp người khác tìm thấy phương hướng của chúng ta, chỗ của chúng ta trong xã hội

Các bạn trẻ thân mến, Chúa nói: “Ta là ánh sáng thế gian – Các con là ánh sáng thế gian”. Thật là huyền bí và tuyệt diệu khi Chúa Giêsu áp dụng khẳng định về Ngài cho mỗi một người chúng ta, đó là "ánh sáng". Nếu chúng ta tin rằng Ngài là con của Thiên Chúa, Đấng chữa lành bệnh và làm cho người chết sống lại, Đấng đã đi ra tự mình đi ra khỏi mồ và thật đang sống thì chúng ta có thể hiểu rằng Ngài là ánh sáng, là nguồn của tất cả mọi ánh sáng trên thế gian này. Mặt khác, chúng ta trải nghiệm ngày càng nhiều những thất bại từ sự nỗ lực của chúng ta và những thiếu sót cá nhân của chúng ta, mặc dù rất quyết tâm. Cuối cùng là thế giới chúng ta sống, với những tiến bộ kỷ thuật của nó, vẫn không có gì tốt hơn cả. Vẫn còn chiến tranh và khủng bố, đói khát và bệnh tật, cảnh bần cùng chua xót và áp bức tàn nhẫn. Và thậm chí trong lịch sử của chúng ta những người đã nhìn thấy bản thân họ như “người đem ánh sáng”, nhưng khi không được đốt sáng bởi Chúa Kitô, một ánh sáng đích thực, đã không tạo một thiên đường trần gian, nhưng thiết lập chế độ độc tài và các hệ thống độc tài để ở đó thậm chí một tia sáng nhỏ nhất của con người cũng bị bóp nghẹt.

Ở điểm này chúng ta không thể giữ im lặng về sự hiện hữu của sự dữ. Chúng ta nhìn thấy nó nhiều nơi trong thế gian này; nhưng chúng ta cũng nhìn thấy nó – và nó làm chúng ta đáng sợ –trong chính cuộc sống của chúng ta.

Thật sự, trong tâm của chúng ta có một khuynh hướng về sự dữ, có sự ích kỷ, sự đố kỵ, gây hấn. Có lẽ với sự rèn luyện bản thân, những điều này có thể kiểm soát được. Nhưng nó trở nên khó khăn hơn với những khiếm khuyết có tính cách ẩn dấu, có thể nhấn chìm chúng ta như trong một làn sương mù dày đặc, chẳng hạn như sự chậm chạp, hay lười biếng để ước muốn và làm những việc tốt. Lần lại lần trong lịch sử, những người quan sát với con mắt sắc bén đã chỉ ra rằng thiệt hại đến cho Giáo hội không từ đối thủ của mình, nhưng từ những người Kitô hữu không dám dấn thân. Vì thế làm sao Chúa Giê-su có thể nói rằng những người Kitô hữu này, bao gồm cả những người yếu đuối và thường không sốt sắng, là ánh sáng của thế gian? Có lẽ chúng ta có thể hiểu Ngài nếu Ngài đã gọi đến với chúng ta: hãy sám hối! trở nên ánh sáng của thế gian! Hãy thay đổi cuộc sống, làm nó sáng lên và sáng rực rỡ! Chúng ta chẳng ngạc nhiên sao khi Chúa không nói những lời kêu gọi ấy với chúng ta, nhưng nói với chúng ta rằng chúng ta là ánh sáng của thế gian, chúng ta tỏa sáng, chúng ta chiếu sáng trong bóng đêm sao?

Các bạn trẻ thân mến, Thánh Phaolô trong những thư của ngài đã chẳng chùn bước để kêu gọi những người đồng thời với ngài, thành viên của cộng đoàn đia phương, “các thánh”. Ở đây nó trở nên rõ ràng rằng mọi người được rửa tội – ngay cả trước khi thực hiện những việc tốt hay có những thành quả đặc biệt – là được thánh hóa bởi Chúa. Trong bí tích Thánh Tẩy, Chúa Giêsu, như đã làm, làm bừng sáng trong cuộc sống của chúng ta điều Giáo Lý gọi là ơn thánh hóa. Những người canh giữ ánh sáng này, những người sống nhờ ân sủng, thực sự là thánh thiện

Các bạn trẻ thân mến, lần này đến lần khác ý niệm về các thánh bị biếm họa và xuyên tạc, như thể để là thánh có nghĩa là tách biệt khỏi thế gian này, ngờ nghệch và ủ rũ. Chúng ta thường nghĩ rằng một vị thánh phải là một người tu luyện khổ hạnh và đạo đức, người có thể rất được kính trọng, nhưng chúng ta không thể bắt chước họ. Ý kiến này thật sai lầm! Không có thánh nào, ngoại trừ Đức trinh nữ Maria, người không biết đến tội, người không bao giờ sa ngã. Các bạn trẻ thân mến, Chúa Giê-su không quan tâm đến bao nhiêu lần bạn bị vấp ngã hơn là bao nhiêu lần bạn đã đứng lên một lần nữa sau khi bị vấp ngã. Ngài không yêu cầu những thành tích lấp lánh, nhưng Ngài muốn ánh sáng của Ngài chiếu sáng trên bạn. Ngài không gọi các bạn vì các bạn là người tốt và hoàn hảo, nhưng vì Ngài tốt lành và Ngài muốn làm các bạn là bằng hữu của Ngài. Phải, các bạn là ánh sáng thế gian bời vì Chúa Giê-su là ánh sáng của các bạn. Các bạn là người Kitô hữu – không vì các bạn làm những điều đặc biệt và lạ thường, nhưng bởi vì Chúa Giê-su là cuộc sống của các bạn. Các bạn thánh thiện vì ân sủng của Người đang hoạt động trong bạn.

Các bạn thân mến, buổi tối hôm nay chúng ta quy tụ lại chung quanh Thiên Chúa duy nhất, chúng ta cảm nhận sự thật của lời Chúa Giê-su nói rằng thành phố xây dựng trên một đỉnh đồi không thể bị che khuất. Sự quy tụ này chiếu sáng không chỉ qua một cách– trong ánh sáng rực rỡ của vô vàn ánh sáng, trong sự huy hoàng của rất nhiều bạn trẻ tin tưởng vào Chúa. Một cây nến chỉ có thể đem đến ánh sáng nếu nó để bị chính nó tan chảy bởi lửa. Nó sẽ vô dụng nếu sáp của nó không duy trì lửa Hãy để Chúa đốt cháy trong các bạn, thậm chí phải trả giá bằng sự hy sinh quên mình. Đừng sợ rằng các bạn có thể bị mất đi điều gì đó để cuối cùng bàn chỉ có bàn tay trắng. Hãy can đảm để đưa những tài năng và những món quà của các bạn cho nước Chúa và để bản thân bạn – như sáp nến – qua các bạn Chúa thắp ánh sáng giữa đêm tối. Hãy dám trở nên những vị thánh sáng chói mà trong mắt và trái tim của họ tình yêu Chúa Kitô chiếu rọi và vì thế họ mang ánh sáng đến thế gian. Tôi tin rằng các bạn và nhiều bạn trẻ người Đức khác ở đây là những ngọn đèn hy vọng mà không còn bị che khuất. “Các con là ánh sáng thế gian”. Amen.

Monday, September 12, 2011

Quên lo âu để tìm hạnh phúc

Bao lâu anh em còn làm nhiều sự, nếu ít ra anh em không học biết từ bỏ ý riêng và quy phục, bỏ đó nỗi âu lo về chính mình, và về những gì thuộc về mình, anh em sẽ không thể tiến triển được trên đường hoàn thiện.
--Thánh Gioan Thánh Giá


 

Tuesday, July 12, 2011

Đâu có Sự Sống, sự chết sẽ không còn.
Đâu có Ánh Sáng, bóng tối sẽ phải rút lui


Các môn đệ đến gần hỏi Đức Giê-su rằng: “Sao Thầy lại dùng dụ ngôn mà nói với họ?” Người đáp: “Bởi vì anh em thì được ơn hiểu biết các mầu nhiệm Nước Trời, còn họ thì không. Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất. Bởi thế, nếu Thầy dùng dụ ngôn mà nói với họ, là vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu. Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng: Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy; vì lòng dân này đã ra chai đá: chúng đã bịt tai nhắm mắt, kẻo mắt chúng thấy, tai chúng nghe, và lòng hiểu được mà hoán cải, và rồi Ta sẽ chữa chúng cho lành. (Mt 13,10-14)

 

Không biết vì lý do gì tôi lướt qua câu nhấn mạnh trên của đoạn Phúc Âm ngày Chúa Nhật XV Mùa Thường Niên. Nhưng khi tôi đọc lại thì câu này nổi bật lên nhắc nhở tôi Thiên Chúa rất muốn cho loài người được một cuộc sống an lành hạnh phúc ngay cả đời này.

Chúng ta không muốn làm điều dữ nhưng chúng ta lại làm điều dữ. Thường thường, chúng ta không làm vì ác ý nhưng vì yếu đuối, không có đủ khả năng để vượt qua khỏi tính xấu của mình, tính ích kỷ và sự thiếu tha thứ của mình. Chúa Giêsu biết rõ lòng dạ của con người và Ngài muốn giúp chúng ta.

Tôi muốn sống đẹp lòng Chúa nhưng tôi thường hành động cách ích kỷ, bảo vệ cái tôi của mình. Nó giống như nếu vật gì đụng đến vết thương trên người mình, phản ứng tự nhiên của con người là hất bỏ vật ấy để bảo vệ chính mình trước hết. Nó là luật sống còn trong thế giới tự nhiên. Chỉ tội ai trong chúng ta cũng có vết thương riêng của mình và chúng ta đụng chạm nhau luôn trong cuộc sống. Nếu cứ theo luật tự nhiên này để sống, chúng ta sẽ tự huỷ lẫn nhau. Vì thế, được chữa lành khỏi vết thương của tâm hồn là điều rất cần thiết cho đời sống Kitô hữu.

Thiên Chúa biết tôi cần được chữa lành và điều kiện của Ngài là "lắng tai nghe lời Chúa, mở mắt để thấy việc Chúa làm để hiểu và hoán cải" và Ngài sẽ chữa tôi lành. Tôi đã thấy Chúa chữa lành người trong gia đình tôi chỉ vì họ trở về với Chúa. Chúa đang chữa lành tôi vì tôi cầu khẩn Ngài.

Thiên Chúa là Sự Sống. Chữa lành bệnh hoạn tật nguyền là bản năng của Chúa. Đâu có Sự Sống, sự chết sẽ không còn. Đâu có ánh sáng, bóng tối sẽ phải rút lui. Đến với Chúa và tôi sẽ được chữa lành. Không còn điều kiện nào khác.

Sunday, June 26, 2011

Uớc muốn thiên đàng, tôi đi tìm hạnh phúc


Giờ đây, tôi vui mừng được chịu đau khổ vì anh em. Những gian nan thử thách Đức Ki-tô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho đủ mức, vì lợi ích cho thân thể Người là Hội Thánh. (Col 1,24)


Sau hơn 25 năm cố gắng sống đời tốt lành đẹp lòng Chúa bây giờ tôi mới hiểu lý do của những khổ tâm của tôi.

Tôi cố gắng sống đời đạo đức của con chiên ngoan đạo để trở thành người tốt, để làm đẹp lòng Chúa. Tôi đón nhận hy sinh với nhiều lưỡng lự, cắn răng chịu đựng vì “mọi sự sẽ qua đi.”

Rầm rĩ như than nằm sâu dưới lớp tro dày là ước muốn có một đời hạnh phúc. Nó là động lực sống của tôi. Thiên đàng mai sau xa vời quá. Tôi tìm mọi cách để có sự bình an và hạnh phúc ngay bây giờ.

Bí lối, tôi buộc phải nhận ra rằng cái hạnh phúc mà tôi muốn, tôi sẽ không tìm được nó và nhờ đó có thể nhận ra sự sai lầm của mình.

Hạnh phúc không thể là mục đích của đời tôi. Hạnh phúc là kết quả của một cách sống. Vì mục đích của tôi là đi tìm hạnh phúc, cuộc sống trở nên khó khăn nặng nề và đầy thất vọng. Những xảy ra trong cuộc sống ít khi đi theo ý tôi và tôi chống cự những xảy ra này. Thay vì được hạnh phúc vì ít khi sự việc xảy ra theo ước muốn quá vị kỷ của tôi, tôi lại phải đương đầu với những "khó khăn" xảy ra ngoài dự định. Tôi muốn trở nên một người tốt cho lợi ích của riêng tôi, cho sự thánh thiện của đời tôi, để được lòng người khác. Tôi hy sinh để có sức mạnh và để Chúa hài lòng với tôi. Rút cuộc, tôi là cùng đích của mọi sự.

Chúa Giêsu hiến thân mình trên cây thập tự là một sự lôi cuốn mạnh mẽ của đời vị tha nhưng cũng là sự sợ hãi của tôi. Tôi sợ đau khổ, sợ mất mát.

Ơn Chúa xuống trên tôi như nước nhỏ trên tảng đá. Rơi mãi đá cũng mòn và cuối cùng tôi “chợt hiểu”. Nếu tôi muốn hạnh phúc, tôi sẽ không tìm hạnh phúc nhưng hết mọi cách dâng hiến tất cả đời tôi: sức lực, khả năng, trí khôn cho Thiên Chúa và để làm sáng danh Chúa.

Thiên Chúa đã yêu tôi cách điên cuồng đến nỗi Ngài đã hiến thân mình để tôi được sống. Tôi cũng sẽ đáp trả tình yêu ấy với trót cả đời mình. Tôi có thể đoán được tôi sẽ rất hạnh phúc nếu tôi sống tất cả cho Chúa.

Mục đích của tôi không còn là hạnh phúc nhưng là để yêu mến Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn, hết trí khôn bằng đời sống tận hiến phục vụ Chúa qua việc phục vụ anh chị em mình.

Để phục vụ Chúa cách trọn vẹn, tôi sẽ phải chiến đấu với khuynh hướng ích kỷ, và vượt qua những sợ hãi của lòng kém tin.

Khi tôi không đi tìm hạnh phúc, thì hạnh phúc của thiên đàng là một sự có thể cho tôi ngay cả đời này. Tôi ước mong được như Thánh Phaolô, Thánh Têrêsa Hài Đồng, Thánh Têrêsa Avila để coi những hy sinh, những chịu đựng như là vinh dự của mình để được hiệp thông với Chúa Giêsu.

Hạnh phúc là hoa quả của tình yêu. Hạnh phúc và bình an là hồng ân của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa của tình yêu. Bây giờ tôi "chợt hiểu".

Thursday, June 9, 2011

Bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt
(2 Cor 4,8)


Trong cuộc sống của người Kitô hữu, con đường trở nên thánh thiện là một con đường lên dốc thẳng, đầy chiến đấu gay go. Khi chúng ta tưởng mình đã vượt qua được một trở ngại và mạnh sức hơn một tí, chúng ta lại gặp lại vấn đề cũ của ích kỷ, cái tôi quá lớn vật ngã một lần nữa.

Chúng ta muốn xuôi tay bỏ cuộc cho rằng việc trở nên thánh thiện là việc của ai đó nhưng chúng ta khi thôi xin kiếu.

Chúng ta nghĩ thánh thiện là từ sức mạnh ý chí sắt đá của riêng mình. Khi chúng ta không có ý chí sắt đá đó thì trở nên thánh nhỏ thôi là cũng đủ.

Phản ứng của những người anh em Tin Lành khi họ nghĩ rằng Giáo Hội Công Giáo dạy chúng ta nên thánh nhờ sức mạnh sắt đá của chính mình, giúp tôi suy nghĩ nhiều hơn về đời thánh thiện trong Kinh Thánh.

Đấng Sáng Lập dòng Nữ Tử Thánh Phaolô, Chân Phước Alberione có viết vài bài cầu nguyện và vì một lý do nào đó, tôi luôn nhớ: Xin đặt ý chí của Thầy thay cho ý chí của con; Xin thay thế tình yêu của con cho Chúa và cho tha nhân bằng tình yêu của Chúa; Xin thay thế trái tim con với trái tim của Chúa.

Có lẽ tôi thích những lời nguyện này vì nó đặt gánh nặng cho sự thánh thiện của tôi trên vai Chúa. Dù rằng tôi cũng phải cộng tác với Chúa, những lời nguyện này đem an ủi đến tâm hồn tôi vì Thiên Chúa là Đấng chủ sự. Tôi không biết đường để đi, nhưng việc vạch ra con đường là việc của Chúa. Không phải của tôi.

ĐGH Benedict trong cuốn một của “Đức Giêsu Thành Nazareth,” trong đoạn chú giải về Kinh Lạy Cha sau khi nói ở đâu Thiên Chúa không hiện diện, nơi đó con người sẽ tiêu vong cùng với cả thế giới. Và ở đâu thánh ý của được thực hiện ở đó là trời. Ở đâu thánh ý Chúa không được thực hiện, đó chỉ là đất. Ngài tiếp tục: "Từ đó, chúng ta có thể biết trong ý nghĩa sâu xa và đặc thù nhất, Đức Giêsu là 'trời'—trong Người và qua Người, ý muốn Thiên Chúa đã được thực thi trọn vẹn. Khi nhìn ngắm Người, chúng ta học được rằng chúng ta không thể nào tự mình nên công chính được: trọng lực ý muốn của chúng ta luôn lôi kéo chúng ta ra khỏi ý muốn của Thiên Chúa, bắt chúng ta trở thành “đất”. Nhưng Người đón lấy chúng ta, kéo chúng ta về Người, vào trong Người, và trong sự hiệp thông với Người, chúng ta học được ý muốn Thiên Chúa. Như thế, trong lời cầu xin thứ ba của Kinh Lạy Cha, chúng ta khẩn cầu để luôn được gần gũi với Người, để ý muốn của Thiên Chúa lướt thắng được sức lực ích kỷ nặng nề của chúng ta, nâng chúng ta đến nới mà chúng ta được kêu gọi."

Thật là tràn đầy niềm an ủi. Thiên Chúa biết rõ con người tôi luôn hướng về “đất” nhưng Người không để tôi một mình. Cuối cùng Chúa sẽ toàn thắng. Ngài sẽ thay thế cái gì là của tôi, với cái gì là của Ngài. Lạy Chúa, con đặt hy vọng vào tình yêu của Ngài. Dầu con không đủ sức, Chúa sẽ là sức mạnh của con.

Wednesday, April 27, 2011

Vật chất được đem vào sự sống mới


Ngài đã trao ban chính mình Ngài cho tôi, và kéo tôi ra khỏi chính mình, hướng tôi lên cao

Trich từ bài phỏng vấn ĐGH Benedict của đài truyền hình Ý đâyđây:

“Chúa Giêsu đã không để thân xác của mình bị hư nát. Điều này nói cho chúng ta rằng ngay cả vật chất cũng được đem vào chốn đời đời, nó sẽ được phục sinh, nó không là vật bị mất đi. Nhưng Ngài đã đem vật chất này vào một trạng thái mới của sự sống.

Vì thế có một trạng thái mới, một trạng thái khác, mà chúng ta không biết nhưng đã được tỏ bày trong sự kiện vể Chúa Giêsu và đó là một hứa hẹn lớn lao cho chúng ta: rằng có một thế giới mới, một đời sống mới mà chúng ta đang hành trình về đó.

Ở trong trạng thái này, Chúa Giêsu có thể để Ngài được cảm giác, dang tay ra cho những kẻ theo Người, ăn uống với họ, nhưng vẫn ở ngoài đời sống sinh lý chúng ta đang sống.

Ngài là một người thật, không phải là một bóng ma, rằng Ngài sống một đời sống thật, nhưng là một đời sống mà không còn qui phục sự chết. Đó là lời hứa hẹn lớn lao của chúng ta.

Thật quan trọng để hiều điều này, rõ ràng như chúng ta có thể cho Thánh Thể.

Trong Thánh Thể, Chúa Giêsu trao ban cho chúng ta thân xác vinh hiển của Ngài, không phải là thịt để ăn trong trạng thái sinh vật.

Ngài trao ban cho chúng ta chính mình Ngài, sự mới mẻ mà Ngài là, trong nhân tính của chúng ta, trong thể lý con người của chúng ta, và sự mới mẻ này chạm với chúng ta qua bản chất của Ngài để chúng ta có thể để chính mình được thâm nhập bởi sự hiện diện của Ngài, biến hóa trong thánh nhan Ngài.

Điểm này điểm quan trọng vì chúng ta qua đó đã có tiếp xúc với đời sống mới này, loại mới của sự sống, vì Ngài đã vào trong tôi và tôi đã đi ra ngoài chính mình và tôi được nối dài đến một phạm vị mới của sự sống.

Nó không phải về việc chú ý đến những điều chúng ta không hiểu nhưng là để đi trên một cuộc hành trình đến một cảnh sống mới mẻ mà luôn bắt đầu lại một lần nữa trong Thánh Thể.”

Cha sáng lập của Dòng, Chân Phước Giacôbê Alberione có nói rằng đối với người thánh, khi họ vào thế giới bên kia, những gì họ thấy ở đó không làm họ quá đỗi ngạc nhiên. Có lẽ một trong những lý do điều ấy đã xảy ra là vì họ đã trở nên "thánh thể", hiến thân mình cho Nước Trời trong cuộc sống của họ nhờ đã lãnh nhận Thánh Thể. Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi họ trở nên giống Người khi Ngài trở nên một với họ trong hiệp lễ.

Monday, April 25, 2011

Tự mâu thuẫn với chính mình

From In Exile, the last paragraph:

Nicholas Lash, professor of Divinity at Cambridge, once made this comment about our struggle: “ . . . we need do no more than notice the most of our contemporaries still find it ‘obvious’ that atheism is not only possible, but widespread and that, both intellectually and ethically, it has much to commend it. This view might be plausible if being an atheist were a matter of not believing that there exists ‘a person without a body’ who is ‘eternal, free, able to do anything, knows everything’ and is ‘the proper object of human worship and obedience, the creator and sustainer of the universe.’ If, however, by ‘God’ we mean the mystery, announced in Christ, breathing all things out of nothing into peace, then all things have to do with God in every move and fragment of their being, whether they notice this and suppose it to be so or not. Atheism, if it means deciding not to have anything to do with God, is thus self-contradictory and, if successful, self-destructive.”

Nicholas Lash, một giáo sư của Thần Học tại Cambridge, USA, có nói:

“…Chúng ta không cần làm điều gì hơn là nhận xét để thấy phần lớn của những người đang sống với chúng ta vẫn thấy sự việc ‘rõ ràng’ rằng vô thần không chỉ là một điều có thể, nhưng lan rộng, và trong lãnh vực trí tuệ và luân lý, nó có nhiều chứng minh đáng giá. Cách nhìn này (đã) có thể hợp lý nếu vô thần có nghĩa là không tin rằng có hiện hữu “một người mà không có xác” người mà “vĩnh cửu, tự do, có thể làm bất cứ điều gì, biết tất cả mọi sự” và là “một người đáng được loài người thờ phượng, vâng phục, đấng tạo hóa và duy trì vũ trụ.” Tuy nhiên nếu, với từ “Thiên Chúa” chúng ta có ý nói về mầu nhiệm, được công bố bởi Đức Kitô, Đấng thổi hơi ra tất cả mọi sự vật từ không không đem nó vào sự bình an, vì thế tất cả đều liên hệ với Thiên Chúa trong tất cả mọi di chuyển và mấu mảnh của nó, dẫu chúng nó nhận ra điều đó và tin nó là như thế hay không. Vô thần, nếu nó có nghĩa là quyết định để không có sự gì dính dáng đến Thiên Chúa, thì tự mâu thuẫn với chính nó và nếu nó thành công, sẽ tự hủy.”


Saturday, April 23, 2011

Chúng ta trở nên giống Đấng chúng ta thờ

Hôm qua tôi đi tham dự Cuộc Tưởng Niệm Sự Thương Khó và chịu chết của Chúa Giêsu vì là ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Đoán qua những cử chỉ bên ngoài, tôi nhận ra rằng những người ngồi chung quanh tôi tham dự cuộc tưởng niệm với hết cả tâm hồn mình. Họ tôn sùng Chúa Giêsu và họ muốn thờ phượng Người bằng những cử chỉ của thân xác họ. Họ cúi đầu thờ lạy tên Thánh của Chúa; nhà thờ im phăng phắc, quỳ xuống trên sàn đất để tỏ lòng thờ phượng khi bài Tin Mừng đọc đến chỗ Chúa sinh thì. Trời nóng, nhà thờ chật chội, nhưng lòng yêu mến muốn vượt lên khỏi những mệt mỏi của con người xác thịt.

Sự tôn kính Thiên Chúa của các anh chị em tôi trong giờ phụng vụ của cộng đoàn dân Chúa, làm tôi rất cảm động.

Đây là một người đàn ông trí thức, tuổi khoảng trung niên, nhưng anh hạ mình trước mặt Thiên Chúa tối cao. Đây là một thanh niên, cố gắng để thờ phượng Chúa của anh biết rằng mình là thụ tạo. Đây là chị tuổi trung niên, đến thờ lạy Chúa và cầu khẩn Ngài cho gia đình.

Thật vinh dự cho họ biết bao, thật vinh dự cho chúng ta biết bao khi chúng ta thờ phượng Thiên Chúa tối cao. Chúng ta trở nên giống sự chúng ta tôn thờ.

Qua việc thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta được trở nên giống Ngài: trao ban, tha thứ, khiêm tốn, hiền lành, thánh thiện. Ah, tôi không quá lời. Vì việc đó không xảy ra ngay lập tức, hay ngay cả sau cuối một cuộc đời phụng sự. Nhưng trong cách huyền nhiệm, chúng ta bị thu hút bởi những sự tốt đẹp ấy và nghi ngờ những gì lòe loáng. Và ân huệ của Chúa Giêsu Kitô đã bắt đầu lúc này, Ngài sẽ hoàn tất khi chúng ta cùng chết với Ngài. Ngài sẽ làm cho chúng ta trở nên giống Ngài trong khoảnh khắc nhờ sự phục sinh vinh hiển của Ngài.

Thật vậy, khi thờ phượng Thiên Chúa Ba Ngôi “Tất cả chúng ta, mặt không màn che, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương; như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như do bởi tác động của Chúa là Thần Khí” (1 Cor. 3,18).

Lời Chúa không thể sai lầm.

Wednesday, April 20, 2011

Thiên Chúa cứu độ thế gian qua một người duy nhất: Đức Giêsu Kitô

"Chúa Giê-su liên kết đức tin về sự phục sinh với bản thân của Người: "Tôi là sự sống lại và là sự sống". Ðức Giê-su sẽ cho những ai tin vào Người, và đã ăn Thịt và uống Máu Người, được sống lại trong ngày sau hết." (GLCG 994)

Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời

Mỗi lần tôi đi rước Mình Máu Thánh Chúa, thân xác này của tôi đang được biến hóa. Tôi đón nhận Chúa Giêsu Phục Sinh vào tâm hồn và thân xác của tôi. Tôi đón nhận sự thánh thiện của Chúa Giêsu Kitô vào không những linh hồn mà thân xác nữa. Mắt tôi không thấy, nhưng thân xác này của tôi đang dần dần được biến đổi thành “thân xác có thần khí”, thần khí của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa của sự sống.

Một phép lạ đang xảy ra trong tôi qua bí tích Thánh Thể. Cũng giống như phép lạ xảy ra trong bí tích Rửa Tội. Thân xác của người được rửa tội, đi vào nước để chết đi. Ra khỏi nước, đón nhận sự tái tạo của Chúa Phục sinh. Con người mới, dấu vết nô lệ tẩy sạch. Một dấu vết mới được ghi khắc trong tâm hồn: đây là con yêu dấu của Ta trong Người Con.

Dân Do-thái trong Kinh Thánh không biết về sự chia rẽ linh hồn và thân xác như chúng ta ngày hôm nay do ảnh hưởng của triết lý Plato. Trong từ ngữ của Kinh Thánh, loài người là một thân xác có hồn. Quẳng đi niềm tin vào sự sống lại trong ngày sau hết trong Chúa Giêsu Kitô, con người chỉ là một loài vật có trí khôn cao hơn. Nếu không có sự phục sinh, chúng ta thật là một súc vật đáng thương. Biết nhiều hơn để tuyệt vọng hơn.

Nhưng Chúa đã phục sinh. Ánh sáng rực rỡ của Ngài chiếu sáng trên gương mặt của chúng ta ngay giữa đời sống vâng lời từ bỏ của thập giá. Vì Chúa đã chiến thắng thần chết, mọi sự của đời sống con người mang ý nghĩa xây dựng Nước Trời không những trong thành công mà nhất là trong thất bại. Thiên Chúa tạo dựng nên muôn loài từ không không. Cứu độ từ cõi chết. Dấu ấn của Ngài là khi loài người bó tay, tuyệt vọng vì mọi người đã thất bại, tình yêu chung thủy của Ngài vẫn ở đó để ra tay. Thiên Chúa Cha đã cứu độ thế gian qua một người duy nhất, Đức Giêsu Kitô. Người vẫn cứu độ thế gian qua sự vâng lời khiêm tốn của tôi tớ khiêm tốn và vâng lời. Dầu chỉ là một người. Sự khiêm tốn vâng lời của bạn theo gương mẫu của Chúa Giêsu có sức đem sự sống đến cho trần gian này.

Đời thánh thiện: dễ như đếm 1 2 3

Sau đây là bài giảng của ĐGH Bênêđictô có nói trong buổi tiếp kiến chung mỗi thứ Tư ngày 13 tháng 4 về ơn gọi sống đời thánh thiện của mỗi người.

Linh hồn thánh thiện là gì? Công Đồng Vatican II đã định rõ rằng thánh thiện không gì hơn là sống bác ái hết sức mình…

Có lẽ ngôn ngữ này cùa Công Đồng Vatican II hơi nghiêm trọng. Có lẽ chúng ta nên nói điều này cách đơn giản hơn. Điều gì là cốt yếu nhất?

  1. Điều cốt yêu là không một ngày Chúa Nhật nào bị bỏ qua để chúng ta được gặp Chúa Kitô Phục Sinh trong Thánh Thể. Đây không phải là gánh nặng nhưng là ánh sáng cho cả tuần.
  2. Không bao giờ bắt đầu một ngày hoặc kết thúc một ngày mà không ít nhất có một giây phút ngắn ngủi để gặp gỡ Chúa.
  3. Và trong cuộc hành trình của đời sống, bước theo “những dấu đường” mà Thiên Chúa đã truyền đạt cho chúng ta trong Mười Điều Răn trong ánh sáng Chúa Kitô; đó đơn giản là định nghĩa của bác ai trong một trường hợp cụ thể. Tôi nghĩ đây là sự giản dị thực sự và sự hùng vĩ của đời sống thánh thiện.

Đây là lý do tại sao thánh Augustinô khi dẫn giải về chương thứ tư của thư thứ nhất của thánh Gioan có thể xác nhận điều thật kinh ngạc: “Dilige et fac quod vis” (Yêu và làm điều bạn muốn). Và ngài tiếp tục: “Nếu bạn phải thinh lặng, hãy thinh lặng vì tình yêu; nếu bạn phải nói, hãy nói vì tình yêu; nếu bạn phải sữa chửa, sữa chửa vì yêu; nếu bạn tha thứ, hãy tha thứ vì yêu; ước gì gốc rễ của tình yêu ở trong bạn, vì từ gốc này không có điều gì ra từ nó mà không tốt” (7, 8: PL 35).

Có lẽ chúng ta nên tự hỏi mình: Chúng ta có thể với cao như thế với những giới hạn và những yếu điểm của chúng ta? Trong năm phụng vụ, Giáo Hội mời chúng ta nhớ dãy các thánh, những người đã sống bác ái cách vẹn toàn, đã sống trong yêu thương và bước theo Chúa Kitô trong đời sống hằng ngày của họ.

… Và tôi cũng muốn cộng vào dãy các thánh này không chỉ những thánh lớn mà tôi yêu mến và biết rõ là “dấu đường”, nhưng cả những thánh giản dị, đó là những người tốt mà tôi thấy trong đời mình, những người sẽ chẳng bao giờ được phong thánh.

…. Tôi muốn mời bạn mở rộng lòng mình cho sự hoạt động của Chúa Thánh Thần, Người biến đổi đời sống chúng ta để chúng ta trở nên những mẫu tranh ghép mảnh của sự thánh thiện mà Thiên Chúa đang tạo dựng trong lịch sử để Khuôn Mặt của Chúa Kitô sẽ chiếu sáng cách rực rỡ. Chúng ta đừng sợ để nhìn trên cao, tới nơi Chúa ngự; chúng ta đừng sợ là Chúa sẽ hỏi quá nhiều nơi chúng ta, nhưng chúng ta hãy để mình được hướng dẫn trong hành động hằng này bằng Lời của Ngài, ngay cả khi chúng ta cảm thấy mình nghèo hèn, không đủ khả năng, tội lỗi: Ngài sẽ là người biến hóa chúng ta theo tình yêu của Ngài.

Tâm hồn trẻ thơ

Để chuẩn bị cho Tuần Thánh và nhất là Tam Nhật Phục Sinh, tôi đọc Giêsu Thành Nadareth, cuốn 2 của ĐGH Bênêdictô XVI. Ở chương 1, điểm ĐGH phân biệt giữa đám đông tung hô Chúa và đám đông của ngày thứ Sáu khi Chúa chịu đóng đanh làm cho tôi cảm thấy phấn khởi.

All three Synoptic Gospels, as well as Saint John, make it very clear that the scene of Messianic homage to Jesus was played out on his entry into the city and that those taking part were not the inhabitants of Jerusalem, but the crowds who accompanied Jesus and entered the Holy City with him.

This point is made most clearly in Matthew’s account through the passage immediately following the Hosanna to Jesus, Son of David: “When he entered Jerusalem, all the city was stirred, saying: Who is this? And the crowds said: This is the prophet Jesus from Nazareth of Galilee” (Mt 21:10-11). The parallel with the story of the wise men from the East is unmistakable. On that occasion, too, the people in the city of Jerusalem knew nothing of the newborn king of the Jews; the news about him caused Jerusalem to be “troubled” (Mt 2:3). Now the people were “quaking”: the word that Matthew uses, eseísthē ( seíō), describes the vibration caused by an earthquake.

People had heard of the prophet from Nazareth, but he did not appear to have any importance for Jerusalem, and the people there did not know him. The crowd that paid homage to Jesus at the gateway to the city was not the same crowd that later demanded his crucifixion....

Matthew’s account has another important text concerning the reception given to Jesus in the Holy City. After the cleansing of the Temple, the children in the Temple repeat the words of homage: “Hosanna to the Son of David!” (21:15). Jesus defends the children’s joyful acclamation against the criticism of “the chief priests and the scribes” by quoting Psalm 8: “Out of the mouths of babies and infants you have brought perfect praise” (v. 2)....

His meaning becomes clear if we recall the story recounted by all three Synoptic evangelists, in which children were brought to Jesus “that he might touch them”. Despite the resistance of the disciples, who wanted to protect him from this imposition, Jesus calls the children to himself, lays his hands on them, and blesses them. He explains this gesture with the words: “Let the children come to me; do not hinder them; for to such belongs the kingdom of God. Truly, I say to you, whoever does not receive the kingdom of God like a child shall not enter it” (Mk 10: 13-16). The children serve Jesus as an example of the littleness before God that is necessary in order to pass through the “eye of a needle”, the image that he used immediately afterward in the story of the rich young man (Mk 10:17-27).

Cả ba Tân Ước Nhất Lãm, cũng như Thánh Gioan, nói rất rõ ràng rằng khung cảnh tôn vinh Đấng Mêsia người ta gán cho Chúa Giêsu xảy ra khi Chúa vào thành và những kẻ tham dự không là dân cư của thành Giêrusalem nhưng là đám đông đã theo Ngài và vào Thành Thánh với Ngài.

Điều này được làm rõ ràng nhất trong Phúc Âm thánh Matthêu, trong đoạn ngay sau sự tôn vinh Chúa Giêsu, Con Vua Đavít: "Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: 'Ông này là ai vậy?' Dân chúng trả lời : 'Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.'" (Mt 21:10-11) Sự song song của câu chuyện này và câu chuyện của các nhà chiêm tinh từ phương Đông thì không thể lầm được. Cũng trong thời điểm ấy, dân chúng trong thành Giêrusalem không biết điều gì về vị vua dân Do-thái mới sinh ra; tin về Ngài gây "bối rối" (Mt 2:3). Và dân chúng "xôn xao": chữ Mátthêu dùng eseísthē ( seíō), diễn tả sự rung động xảy ra bởi động đất.

Người ta đã nghe về vị ngôn sứ từ thành Nadareth, nhưng Ngài dường như không có gì là quan trọng cho thành Giêrusalem và dân cư ở đó không biết Ngài. Đám đông đã tôn vinh Chúa Giêsu nơi cổng vào thành không cùng là một đám đông mà sau đó đòi đóng đanh Ngài.....

Mátthêu có một phần tường thuật quan trọng về sự tiếp đón Chúa Giêsu trong Thành Thánh. Sau việc tẩy sạch Đền Thờ, những đứa trẻ trong Đền Thờ lập lại những lời ca ngợi: "Chúc tụng Con Vua Đavít!" (21:15). Chúa Giêsu bênh vực lời ca ngợi đầy hân hoan của các trẻ khỏi những lời trách móc của "các thượng tế và kinh sư" trích Thánh vịnh 8: "Qua miệng con thơ trẻ nhỏ, Ngài đã làm bật ra tiếng ngợi khen hoàn hảo." (Tv 8,2)

Ý của Chúa Giêsu sẽ rõ ràng nếu chúng ta nhớ lại câu chuyện đã được tường thuật bởi cả ba Tin Mừng Nhất Lãm khi người ta đem các trẻ nhỏ đến để "Ngài đặt tay trên chúng. Bất kể sự kháng cự của các môn đệ khi họ muốn bảo vệ Ngài khỏi sự quấy rầy, Chúa Giêsu gọi các trẻ em đến với Ngài, đặt tay trên chúng, và chúng lành cho các em. Ngài giải nghĩa hành động này với lời này: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào.” (Máccô 10:13-16). Chúa Giêsu dùng các trẻ nhỏ như một ví dụ về sự cần thiết của tâm hồn nhỏ mọn trước Thiên Chúa để có thể đi qua được "lỗ kim", hình ảnh mà Ngài dùng ngay sau câu chuyện của người giàu có trẻ tuổi (Mc 10:17-27).

Đoạn viết này của ĐGH Bênêđictô làm tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Tôi đã nghe nhiều lần "đám đông hôm nay tung hô Chúa, ngày mai lại đòi đóng đanh Chúa." Câu này gây nên cảm giác thất vọng. Dầu biết rằng thật thế, mỗi lần tôi phạm tội, tôi thất nghĩa, không tin Chúa và làm Chúa đau lòng. Có một tiếng nói nho nhỏ trong trái tim tôi cũng xuất hiện: "Cố gắng mấy tôi cũng sẽ đóng đanh Chúa. Ôi sầu quá!"

ĐGH Bênêđictô cho tôi một cách nhìn khác. Ngay bây giờ, tôi sẽ thoát được sự sầu khổ tâm hồn ấy như các trẻ nhỏ ca ngợi Chúa Giêsu trong Đền Thờ và sẽ không tham dự vào đám đông không biết Chúa và đã kết án Ngài.

Đứng trước mặt Thiên Chúa, tôi là kẻ bé mọn nhưng được thương yêu. Tôi sẽ để Ngài đặt tay trên tôi, chúc lành cho tôi. Tôi thuộc về đám đông đã theo Ngài.